Chương 3: Thừa lệnh
Bến đò Thực Độ đông đúc hơn hẳn bình thường.
Trước bến đỗ, trùng
trùng binh lính xếp hàng nghiêm chỉnh, giáo mác sẵn sàng, mang hiệu kỳ chữ Lê
bay phấp phới. Là thủ vệ binh huyện Dương An, quận Cước Sơn, Lũy Xương.
Một đội phà lớn cập bến.
Toán lớn bộ binh
mặc giáp mang hiệu kỳ họ Nguyễn Thường, quận Việt Sơn, xuống phà, lập tức xếp
thành hàng ngũ chỉnh tề. Tiếp theo sau là một toán nữa, còn đông hơn, khăn đỏ
thẫm quấn trên cánh tay, mang hiệu kỳ họ Trịnh, là tư binh của nhà mẹ Vương hựu
Trịnh Liên.
Xuống phà cuối cùng là
một vị tướng mặc áo gấm tím thẫm, râu cắt ngắn ngủn, đội mũ đinh tự, nom ngoài
ba mươi. Ông không cao, dáng gầy, mặt mày đen sạm mà hóp, ụ mày nhô cao, nhưng
như vậy lại càng nổi bật đôi mắt đen như than chì, khi ánh mồ hôi thì loé như
sắt thép. Sắc mặt ông ta nghiêm cẩn, dường như đang nóng vội mà lại như âm
trầm.
Nhưng bất kể ai, binh
hay tướng, tất thảy họ đều quấn khăn tang trắng trên đầu.
“Trịnh tướng quân!” Chỉ
huy đội thủ vệ Dương An bước lên trước, đanh giọng hô.
“Chỉ huy Lan.” Trịnh
Khâm đứng nghiêm trang trước mặt bà, ông phất ống tay áo tím, rút ra lệnh bài
cùng tờ phê ủy thác mà Vương phủ giao cho ra. “Một nghìn thủ vệ binh.”
Đặng Duy Lan nhận lệnh
bài, kiểm tra đúng ngọc bài của Vương, tờ phê đủ dấu đỏ của Vương hựu và Thế
tử, liền dậm chân nghiêng người tránh đường, tay khoát chỉ về hàng ngũ thẳng
tắp phía sau. “Đã tuyển cho tướng quân đây rồi. Một nghìn thủ vệ binh Dương An,
năm trăm nữ, năm trăm nam, tinh nhuệ, chọn từ quân hộ rõ ràng.”
Trịnh Khâm nheo mắt
nhìn, thủ vệ binh đứng dàn hàng, mỗi người một kiếm một giáo một khiên, quân
trang sáng bóng, cao ráo, dù không mặc áo giáp cũng toát uy nghi, hài lòng gật
đầu. “Chỉ huy vất vả rồi. Khâm sẽ dẫn quân đi ngay.”
“Từ đây tới cảng Sùng La
của Định Phủ còn ba ngày nữa, lương khô chất sẵn đủ trên thuyền rồi. Mọi sự đều
đã sẵn sàng rồi, tướng quân đi theo tôi.”
Đoàn binh hành quân đi
theo bước hai chỉ huy. Họ đã hành quân rồi lênh đênh thuyền bè suốt hai ngày,
không kể ngày đêm, nhưng không kẻ nào dám để lộ nửa tia mỏi mệt.
“Lê Giám huyện đã chuyển
lệnh điều binh mã và thuyền chiến cho tôi từ năm ngày trước, đúng ngay mùng
một.” Đặng Duy Lan vừa đi vừa nói, tay phải giữ lấy đốc của thanh đơn thủ kiếm
giắt bên hông. “Tôi còn sợ không kịp chuẩn bị.”
“Ngài Nguyễn Thường Phúc
cẩn trọng.” Trịnh Khâm bước đi song song với bà, hai tay đều vịn vào thắt lưng.
“Vương phủ đã gửi phiếu lệnh phê đỏ từ sáng ngày hai chín, nhưng Dương Hầu gia
chưa về kịp nên chưa mở được ngọc bài của Vương. Ngựa của Phi Vân trạm chạy đến
thở đường tai cả rồi.”
“Nghe nói là đích thân
Phạm công tử đã phải phi ngựa tới Thanh Sơn để lấy ấn chìa khoá cùng dấu đỏ của
Hầu gia. Quả là phức tạp rườm rà.”
“Tránh hiềm nghi chẳng
xấu mặt nào.”
Đặng Duy Lan chợt quay
đầu nhìn ông. “Trịnh tướng quân chưa nghe tin sao?”
Trịnh Khâm không đáp.
“Bệ hạ ban chiếu rồi.
Chẳng mấy chốc mà sẽ tới thôi.”
“...” Trịnh Khâm trầm
mặc, không ừ hử gì.
“Họa huyết Mã thượng
quan đã theo lệnh Trương Thái úy đi tuyên cáo khắp nước rồi. Hai ngày trước cáo
thị xích bản đã treo đến cổng Giám huyện phủ chúng tôi rồi.”
“Khâm biết.” Cuối cùng
ông cũng lên tiếng khẳng định. “Cáo thị treo khắp đường, sáu đại gia tộc đều
đang lục đục chuẩn bị về thành Phương Tiên chầu Vương phủ rồi.”
“Tước vương của Lũy
Xương ta để trống mười hai năm, giờ cuối cùng cũng thuận danh có chủ. Ắt từ giờ
tôi và tướng quân đỡ rầu như nay.” Đặng Duy Lan chỉ gật đầu, ẩn ý nói.
“Khâm biết.” Trịnh Khâm
đáp, đôi mắt đen trầm tĩnh lóe lên ánh sáng phức tạp.
“Tướng quân nay làm cậu
của Vương,” Đặng Duy Lan lườm ông, nhắc nhở, “chuyến đi này lại càng phải chú
tâm phiền lòng rồi.”
“Khâm biết.” Ông lặp
lại.
Hai người không nói gì
tiếp, chỉ dẫn quân đi. Đoàn người hành quân đi nhanh, chẳng mấy chốc đã tập
trung tại cảng lớn.
Đến khi đã ổn định quân
ngũ, thuyền sắp nhổ neo. Đặng Duy Lan hành lễ với Trịnh Khâm: “Tướng quân
thượng lộ bình an.”
Trịnh Khâm hành lễ đáp
lại. Rồi đột ngột, bà vỗ vai ông, ghé tai nói nhỏ: “Ta và ông đều thờ một chủ,
đừng để tình xưa làm mích lòng nhau. Đi đi, rồi khi về thì gác lại sầu đi. Thế
tử Hoảng đi đã được mười hai năm rồi, tân vương chẳng có lỗi gì cả.”
Trịnh Khâm bị bà giữ
chặt vai. Chỉ khẽ trả lời: “Khâm biết.”
Đặng Duy Lan buông vai
Trịnh Khâm, quay gót về. Trước khi đi xa, bà đưa tay phải lên, ra hiệu nhổ neo.
Thuyền lớn rời cảng.
Trịnh Khâm đứng bên mũi
thuyền, chắp tay im lặng. Phó tướng bước đến phía sau lưng ông, nhẹ mà khẽ:
“Đại nhân, công nữ ở buồng nào ạ?”
“Khuê thích buồng nào
thì để nó ở đấy.” Trịnh Khâm quay qua, cau mày nói với phó tướng. Thấy gương
mặt chàng trai trẻ lộ ra nét bất đắc dĩ, ông liền hiểu ra, khóe miệng hơi nhoẻn
ý cười, ông hỏi: “Sao? Nó lại càn quấy cái gì nữa?”
“Chuyện là…” Chàng trai
liếc trái liếc phải, xoa xoa chiếc khăn đỏ thẫm trên cánh tay rồi thật thà đáp:
“Cô đang muốn xuống phía thuyền nhỏ của Dực ạ… Tôi và các anh em đã hết lời
rồi… Nhưng mà-”
“Cứ để nó đi.” Trịnh
Khâm cắt ngang lời chàng, ông vỗ vỗ vai phó tướng trẻ. “Nó mười một mười hai tuổi
rồi, có phải không biết gì đâu. Muốn thì cứ để nó làm, có gì nó chịu trách
nhiệm. Mấy anh em các người tranh thủ nghỉ ngơi ăn uống đi. Chưa chắc đến nơi
đã có việc đao thương, nhưng cứ giữ mình là hơn.”
“Dạ!” Phó tướng đứng
nghiêm đáp, rồi nói: “Cô đang chèo lên trên cột buồm đấy ạ. Tôi xin đi trước
ạ!”
Nói rồi nhanh nhẹn quay
đi, xuống khoang tàu bảo binh sĩ bên dưới tạm thời nghỉ ngơi.
Trịnh Khâm nhìn theo,
rồi thở dài khẽ một hơi, buông hai tay đang chắp sau lưng ra, xuống khỏi mũi
thuyền, đi về hướng cột buồm ban nãy còn tụ tập các binh sĩ đứng lúng túng
không biết nên làm gì.
Ở trên cột gỗ cao tít,
một cô nhóc đang bám như con sóc, không chịu xuống. Cô bé tương đối cao so với
tuổi mười hai của mình, tay dài chân khỏe, nên nhìn bám víu cũng nhẹ nhàng
thanh thoát. Sắc mặt lại còn hồng hào, tóc đen nhánh cắt ngắn bay loạn trong
gió, trông hơi giống khỉ một cách tức cười. Cô con gái này, chẳng giống ông
chút nào.
Có lẽ ấy lại là điều
tốt.
“Ta cho con đi riêng rồi
đấy.” Trịnh Khâm chống nạnh, ngước nhìn lên con khỉ nhỏ kia, thông báo vậy.
Con khỉ con mặt đỏ của
ông nghe vậy, gương mặt vốn còn đang kiên nghị bám víu trên cao liền nở nụ cười
toe toét, tụt xuống nhanh như chớp. Trịnh Khuê chạy tới trước mặt cha, đưa
thẳng tay ra hoe huẩy trước mặt ông mà nói: “Bố hứa đấy nhá! Nhất ngôn cửu
đỉnh.”
Ông nhìn bàn tay nhỏ đầy
bụi đất, trên ấy còn vương chút nước biển, chẳng biết từ đâu ra. Ông bất đắc dĩ
đưa bàn tay đang giấu sau lưng ra, bắt tay con gái mình, lặp lại như khẳng
định: “Nhất ngôn cửu đỉnh.”
Cuối cùng cũng có được
điều mình muốn, Trịnh Khuê liền hí hửng đi vào buồng chỉ huy, lấy tay nải xếp
sẵn của mình ra, bừng bừng khí thế đứng chờ Nguyễn Đức Dực đón mình leo xuống
thuyền nhỏ.
“Hẹn nhau cả rồi đấy.”
Trịnh Khâm nhìn cái thế chém đinh chặt sắt của cô nhóc, nói vui vậy.
“Nhất ngôn cửu đỉnh. Con
đã bảo con hứa là không sai bao giờ mà!” Cô nhóc cười toe toét đắc ý, để lộ hàm
răng còn nguyên cái răng nanh còn đang mọc dở cùng cái răng cửa khểnh ra chút
ít.
“Theo Nguyễn phó tướng
xuống An Dung làm gì?” Ông hỏi dò, dù biết lời con mình nói chỉ nên tin một nửa
là cùng.
“Có hàng kẹo mà hồi
trước ảnh kể con đấy thây!”
“Con ăn nhiều quá rồi
đấy.”
“Không phải cho con ăn
nhá!”
Cô bé nói đến đây, ông
liền hiểu luôn. Bảo sao quậy phá không ai cản được, nếu là lí do kiểu này, thì
chín trâu cũng không kéo lại được Trịnh Khuê.
Chỉ cần là vì người chị
kia của nó, thì có làm cách nào nó cũng sẽ làm bằng được.
Trịnh Khâm không muốn
nói chuyện với con gái về đứa trẻ kia nữa, bèn quay người định rời đi.
“Bố ăn không? Con mua
nhiều hơn.” Chợt, cô bé nói vậy, như đang dỗ ông.
“Đắt.” Ông đáp cụt lủn.
“Con mua thử cho chị
thôi, có khi chị cũng chỉ ăn một hai viên là cùng. Tốn nhiêu đâu mà!”
Thấy con cứ nheo nhéo
không thôi, ông bèn thở dài, quay lại, rút túi tiền của mình ra chia cho cô
nhóc cả nửa túi bạc.
“Mua nhiều lên, cho tặng
thì ai lại đi cho có một hai viên kẹo. Tiêu đừng quá chỗ này là được. Mà giữ đồ
ăn phải giữ cho cẩn thận, từ giờ đến lúc chúng ta về Vương phủ còn ít thì nửa
tháng, mất hay hỏng thì ta không cho con quay lại mua đâu.”
Trịnh Khuê cầm nửa túi
tiền của cha, hai mắt không khỏi tròn xoe lóe sáng như sao.
Vui buồn của cô lúc nào
cũng vậy, lộ hết ra ánh mắt gương mặt. Cả tình yêu cũng thế.
“Con mua cho bố nữa đấy
nhá!” Trịnh Khuê cất túi tiền vào tay nải như đang cất của báu, rồi trịnh trọng
tuyên bố.
“Tùy.” Trịnh Khâm lại
đáp cụt lủn, rồi bỏ đi.
Nguyễn Đức Dục cũng đến
ngay sau đó, ông vẫn có thể nghe thấy, từ phía sau lưng ông, tiếng cậu ồ òa khi
nghe Trịnh Khuê nháo nhác kể chuyện.
Một đoàn thuyền nhỏ rẽ
qua trấn An Dung, Định Phủ, nhiệm vụ thì chưa biết làm được bao nhiêu, nhưng
cũng có thể mua được niềm vui lớn của cô chủ nhỏ.
Trịnh Khâm đột nhiên
cũng cảm thấy bớt áy náy khi phải đưa con gái theo trong những chuyến đi này
phần nào.
Ông không thích ở lại
Vương phủ, nhưng ông biết con ông đặt trọn con tim trẻ con của nó ở nơi ấy.
Ông lại quay về nơi mũi
tàu, chắp tay nhìn sóng nước và biển rộng, bờ xa.
Nhiệm vụ trước mắt, ông
đương nhiên vẫn dốc lòng làm. Những lời Đặng Duy Lan nói ông đều đã nghĩ cả
ngàn lần. Ông cũng không kém con gái mình là mấy, cũng sẽ đặt trọn con tim nếu
đó là vì chị ông.
Nhưng có lẽ ông đã quá
già, đã qua cái tuổi mà cứ muốn là làm được, đã hứa là không sai.
---------------------
Đã là lần thứ mười kể từ
ngày hôm đó, buổi thức giấc ở toà tả trạch viện của Vương phủ gần như hoàn toàn
chìm vào im lặng. Dù cho sáng nay có người mới mà phía Vương hựu phái đến, cũng
không khác những lần khác là bao.
Nếu như Tả chưởng thị
tiền nhiệm đến nhìn tận mắt, thì hẳn ông ta sẽ hốt hoảng tưởng mình đang thấy
lại cảnh năm xưa ông ta hầu cạnh tiên vương Lý Duật Hoàng.
Ngô Yến cũng đủ khôn
ngoan để không trực tiếp ra mặt.
Chỉ riêng việc chuẩn bị
cho cuộc hành quân của Trịnh tướng quân và xử lý công việc nội vụ của cả hai
tòa trạch tả hữu đã đủ khiến bà ta bù đầu, Phạm công tử và Trịnh công nữ đều
vắng mặt, nếu giờ Vương hựu còn biết tin phong thanh gì nữa thì có mọc ba đầu
sáu tay cũng không cứu bà ta nổi. Còn chưa nói đến, hẳn việc gặp hổ ở thư phòng
hữu trạch mỗi ngày đã đủ rợn gáy với bà ta rồi cũng nên, đâu dại gì mà tự mình
vào hang thăm viếng buổi sáng nữa.
Trong đình viện và trước
dãy nhà ba gian rộng lớn, cả một toán người hầu không dám đứng chẳng dám quỳ,
chỉ biết chôn chân đứng chết lặng bên ngoài phòng ngủ của chủ nhân.
Thế tử, hoặc đúng hơn,
hoặc giờ nên gọi là Vương, một lần nữa, không cho phép bất cứ ai tiến gần cánh
cửa đóng chặt nửa bước. Còn nữ tỳ được cử từ Hữu trạch của Vương hựu đến thì
quỳ rạp trước cửa, không dám phát ra đến một tiếng thở mạnh. Không trách phạt,
chỉ là một câu “ra ngoài” đơn giản, thậm chí không hề cao giọng, nhưng ai cũng
biết Ngài đã nổi giận.
Vũ Hoa đột nhiên cười
khẩy thầm, trong căn phòng này chỉ có mình nàng, nàng biết không ai nhìn thấy
nàng bất kính.
Hầu Lý Tình là việc khó
khăn. Nàng ta có thể còn trẻ, nhưng ngay cả từ lần đầu cả hai gặp nhau, năm
nàng ta bảy tuổi, nàng ta đã khó đoán và vui giận thất thường. Không phải kiểu
vui giận của đứa trẻ bảy tuổi, mà là thứ vui giận có thể khiến người ít thì mất
việc, nhiều thì mất tay mất đầu. Cũng phải thôi, làm gì có mấy đứa trẻ hiểu
được hết những gì đám người lớn xung quanh nó làm. Hầu hết những người hầu khác
đều nghĩ vậy khi họ cố qua mặt Lý Tình, nên họ chẳng thể nào thọ lâu.
Lý Tình không thích người
khác nhìn thấy mình khi chưa chải tóc, mặc vài lớp áo bào.
Lý Tình cũng không thích
người khác nói to, hay chỉ đơn giản là lỡ lầm khiến kẻ khác chú ý.
Khi Lý Tình thức dậy từ
những giấc ngủ nông và ác mộng, kẻ ngu dốt nhất là kẻ tỏ ra hoảng hốt, sợ hãi,
hay thương cảm. Và kẻ to gan nhất là kẻ dám hỏi nàng ta đã thấy gì trong mơ.
Bất kể tội nào bên trên
cũng có thể khiến nàng ta nổi giận. Dù Lý Tình không đuổi kẻ đó đi, thì cả Vương
hựu lẫn Phụng Hạc đại nhân cũng sẽ không để kẻ đó ở lại.
Chứ đừng nói đến hơn
mười ngày hoàn toàn mất ngủ gần đây.
Trước đây từng có người
chắn cho những người hầu nhỏ kia những cơn thịnh nộ âm trầm đáng sợ này, nhưng
giờ thì nàng không thể giúp họ được.
Vũ Hoa vốn đã tính toán
kỹ càng hết thảy. Với một đứa dân đen như nàng, chỉ cần những người trời này
muốn, đầu nàng có thể rơi như lá rụng. Vậy nên nàng luôn cẩn thận đậu trên ngọn
cỏ lau.
Biến cố và sự trừng phạt
bất chấp lần này của Lý Tình hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của nàng.
Bất kể thứ gì đã diễn ra
trong thư phòng của Vương hựu sau khi Phạm công tử đột ngột trở về với bức thư
từ Phi Vân trạm đã đảo lộn mọi thứ tính toán của Vũ Hoa.
Đây không phải lần đầu
tiên nàng đánh liều kháng lệnh, vờn đùa trên vảy ngược của Lý Tình.
Lý Tình vẫn luôn biết
nàng là người của Phụng Hạc đại nhân. Nhưng trung thành là thứ cuối cùng Lý
Tình cần ở nàng. Miễn là nàng không đẩy nàng ta vào rắc rối ngớ ngẩn và quản
tốt trạch viện, thì việc trái lệnh nhỏ nhặt chẳng có vấn đề gì.
Có lẽ mọi thứ khác đi
khi Lý Tình biết lưỡi dao máu có thể đoạt mạng một kẻ mạnh hơn nàng ta rất
nhiều. Vũ Hoa lại có chút bất ngờ. Nàng chép miệng nghĩ, hoá ra cô chủ nhỏ này
cũng biết sợ, cũng biết hoảng.
Ở trong phòng tối, Vũ
Hoa quỳ đối diện với tường gỗ, nghe sự tĩnh lặng và mùi sợ hãi nồng đậm bên
ngoài. Nàng gần như có thể hồi tưởng kỹ càng từng đường vân gỗ trước mặt ngay
cả khi nhắm mắt. Ít nhất, đôi chân tê dại vì quỳ từ sáng đến tối của nàng là
thứ khiến nàng biết rõ rằng mình chưa tận mạng.
Lý Tình sẽ không giết
nàng. Vậy là quá đủ.
Vũ Hoa nhắm mắt lại, đếm
từng tiếng sáp nến nhỏ xuống, từng tiếng phập phùng của tim lửa xung quanh.
Kiên nhẫn, chờ đợi.
Khi Phan tiên sinh của
Vương phủ đến, ông nhanh chóng xua những kẻ vụng về đứng, quỳ bên ngoài tản đi,
khẽ nhỏ giọng, nhưng đủ để Lý Tình nghe thấy.
“Đi hết đi. Ngày nào
cũng thế này, chỉ biết làm Thế tử thêm phiền. Sau này để những kẻ vô dụng như
các ngươi làm tay chân của Vương thì Lũy Xương ta còn mặt mũi gì nữa?”
Khi bọn người hầu lục
đục cúi đầu lui hết xuống, Vũ Hoa có thể nghe thấy ông trịnh trọng nói: “Bẩm
Ngài, theo lệnh Ngài hôm qua, tôi đã mang bản kế hoạch và tính toán chi tiết
đến rồi ạ. Sáng nay Phi Vân trạm cũng đã mang theo tin từ Dương An đến ạ.”
Phan tiên sinh nói xong
điều cần nói, bên ngoài liền yên tĩnh. Vũ Hoa có thể mường tượng ra cảnh người
đàn ông già kia ôm chồng giấy tờ, cuộn tre đứng trước cửa phòng ngủ, bình tĩnh
chờ đợi, không gây ra thêm tiếng ồn nào, càng không hỏi thêm liệu ông nên làm
gì với những thứ đang trĩu nặng tay ông.
Một lúc gần như lâu sau,
Vũ Hoa nghe thấy tiếng nói lành lạnh của Lý Tình vang lên, vẫn từ bên trong
phòng ngủ.
“Phiền tiên sinh rồi.
Cuộn tính đưa ta, còn những thứ còn lại hãy giúp ta mang tới Hữu trạch. Các
tiên sinh cứ bàn trước với Vương hựu và Vương Duyệt Đốc quan, ta sẽ đến sau một
chút.”
Sau đó là im lặng.
Phan tiên sinh chắc hẳn
đã đặt cuộn trúc lại bên ngoài và rời đi. Ông đã hơn sáu mươi, nhưng đi vẫn
không một tiếng động.
Quả là bản lĩnh của
người được tiên vương giữ lại, Vũ Hoa nghĩ bụng.
Rồi tất cả mọi thứ lại
chìm trong im lặng tiếp. Nhưng lần này ngắn hơn, hoặc là Vũ Hoa đã quá bất ngờ
nên mới nghĩ như vậy.
Cửa phòng tối bật mở.
Vũ Hoa gần như ngay lập
tức muốn nhấc thân dậy. Nhưng chân đã quỳ rất lâu, gần như hoàn toàn tê liệt,
nên người không nhấc được lên mà còn không chút sức lực quỵ hẳn xuống. Vậy là
nàng cắn răng, quyết tâm dùng tay lết trên sàn, quay người qua khấu rạp trước
người vừa bước vào phòng.
Mặt trời đã lên qua đầu
tường, nắng cháy bỏng rực, dù dáng người đứa trẻ mười hai tuổi có nhỏ đến mấy,
thì bóng đổ của nàng ta cũng rộng lớn đến mức phủ trùm lên góc phòng của Vũ
Hoa.
Nàng chỉ rạp người trên
sàn, trán dính lên mặt gạch đỏ sần sùi.
Lý Tình cũng không nói
gì, thậm chí, Vũ Hoa có thể cảm nhận được, nàng ta còn không nhìn nàng.
Nàng ta chỉ đóng cửa
lại, đi đến bên bàn của Vũ Hoa, lật mở cuộn tre, nương ánh sáng lọt qua khe cửa
gỗ mà đọc.
Tiếng ve rộ vang xa xôi,
nhưng tiếng bấc lửa vẫn rõ ràng ngay bên tai nàng.
Rồi đột ngột, Lý Tình
nói: “Phụng Hạc chưa về đâu.” Vũ Hoa cảm thấy ánh mắt ấy nhìn mình. “Không cần
diễn.”
Cuối cùng, Vũ Hoa chống
thân ngẩng đầu. Nàng nhìn Lý Tình, lần đầu tiên được phép làm thế sau mười bốn
ngày bị cấm túc.
Trông nàng ta trắng bệch.
Mái tóc dài rũ xuống, xơ xác như thể chưa hề được chải.
Vũ Hoa hơi bất ngờ,
nhưng cũng chỉ thoáng qua. Hộp phấn trắng mà nàng mua cho Lý Tình là loại tốt,
nhưng cũng không có nghĩa là để Lý Tình tự tay thoa vẫn sẽ tốt. Thậm chí như
thế này còn đáng sợ hơn không dùng phấn.
Lý Tình có một đôi mắt
xếch sắc lẻm, đuôi mắt cao nhọn, mắt cũng lớn, lông mi lại ngắn mà thưa. Con
ngươi đen kịt, đến mức gần như không phân biệt được đồng tử, khi nhìn nhau như
thế này, nàng có thể thấy ảnh chiếu của chính mình bị nhốt trong hố đen ấy. Vũ
Hoa nghe nói đôi mắt này là hoàn toàn thừa kế của tiên vương. Nàng không biết
đúng không, nhưng nàng nghĩ nếu vậy thì cũng hợp lý thôi. Vì nội đôi mắt này
cũng đủ giải thích nguyên do những người hoặc quyền quý cao sang hoặc già đời
lão luyện kia đều sợ hai cha con họ Lý này đến vậy.
Bình thường đôi khi nàng
cũng còn rùng mình với ánh nhìn của Lý Tình, mà lớp trang điểm vụng về hôm nay
của nàng ta còn có chút phản tác dụng. Nếu bình thường, hai quầng thâm mờ ở
dưới mắt nàng ta khiến nó hút mắt, thì hôm nay, sự trắng dã xung quanh cái hố
đen kịt ấy còn khiến nó hút mắt hơn.
Nếu là mười lăm ngày
trước nhìn thấy dáng vẻ này của Lý Tình, có khi Vũ Hoa sẽ còn cười.
Nhưng hôm nay, nàng chỉ
né tránh ánh nhìn ấy, lại ngoan ngoãn cúi đầu nói: “Vương thứ tội.”
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Lời của tác giả:
Họa huyết:
"Họa" ở đây là "画", họa trong "họa sĩ", "hoạt họa", tức là
vẽ. "Huyết" là máu.
Họa huyết Mã thượng
quan: Một trong hai bộ phận cấu thành của cơ quan Mã thượng quan (quan trên
lưng ngựa), bên cạnh Tuần tra Mã thượng quan (Giám Duyệt Đốc Tuần tra Mã thượng
quan chính là một phần nhỏ của của bộ phận này). Khác với các Tuần tra Mã
thượng quan được bổ nhiệm định kỳ qua thi cử, Họa huyết Mã thượng quan là cơ
quan mang tính truyền thừa, và chỉ được bổ nhiệm mới khi bị thiếu hụt nhân lực
nghiêm trọng. Chỉ có người sử dụng được Họa Huyết thuật mới trở thành Họa huyết
Mã thượng quan. Do đó, hầu hết họ đều là quý tộc. Họ có nhiệm vụ thực hiện
những đặc nhiệm cần đến thuật Họa Huyết với độ cơ động tối đa, trong trường hợp
này, là tuyên cáo việc phong tước Vương.
Mã thượng quan là cơ
quan duy nhất bên ngoài Phi Vân trạm được sử dụng Phi Vân đạo.
Cáo thị xích bản: có
nhiều dạng cáo thị, với cáo thị bằng gỗ là mức thấp nhất, ngay cả quan địa
phương cũng được treo. Nhưng cáo thị xích bản là dùng để chỉ cáo thị được tạo
ra từ Xích thạch màu đỏ, chỉ dùng cho những tuyên cáo trọng đại của Hoàng Đế và
phải do Hoàng Đế đích thân yêu cầu. Trương Thái úy là người ra quyết định tuyên
cáo xích bản lần này.
Về Họa Huyết thuật, hồi
sau sẽ rõ.
Nhận xét
Đăng nhận xét